Lịch sử Ngân_hàng_trực_tuyến

Tiền thân

Tiền thân của các dịch vụ ngân hàng "tại nhà" hiện đại này là các dịch vụ ngân hàng trên các phương tiện điện tử từ đầu những năm 1980. Thuật ngữ "trực tuyến" trở nên phổ biến vào cuối những năm 1980 và liên quan đến việc sử dụng thiết bị đầu cuối, bàn phím và ti vi để truy cập hệ thống ngân hàng thông qua đường dây điện thoại. "Ngân hàng tại nhà" cũng có thể đề cập đến việc sử dụng bàn phím số để gửi âm báo từ điện thoại tới ngân hàng.

Sự xuất hiện của ngân hàng máy tính

Dịch vụ ngân hàng trực tuyến được giới thiệu tới người tiêu dùng lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1980 tại Ngân hàng United American, một ngân hàng cộng đồng có trụ sở tại Knoxville, Tenn. Ngân hàng United American hợp tác với Radio Shack để sản xuất modem tùy chỉnh an toàn cho máy tính TRS-80, cho phép khách hàng truy cập thông tin tài khoản một cách an toàn. Các dịch vụ có sẵn trong năm đầu tiên bao gồm thanh toán hóa đơn, kiểm tra số dư tài khoản và các ứng dụng cho vay, cũng như truy cập trò chơi, tính thuế, ngân sách và hỗ trợ xem báo hàng ngày. Hàng ngàn khách hàng đã trả 25-30 đô la mỗi tháng cho dịch vụ này.[1]

Năm 1981, bốn ngân hàng lớn của New York (Citibank, Chase Manhattan, Chemical và Manufacturers Hanover) - đối thủ của United American cũng học theo cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà thông qua sử dụng hệ thống videotex.[2] Nhưng do sự thất bại thương mại của videotex, các dịch vụ ngân hàng này không thể trở nên phổ biến ngoại trừ ở Pháp, nơi videotex được các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trợ cấp (Minlist) và Vương quốc Anh, nơi sử dụng hệ thống Prestel.

Các nhà phát triển của hệ thống ngân hàng máy tính đầu tiên trên thị trường của Ngân hàng United American có tham vọng thương mại hóa dịch vụ này trên toàn quốc, nhưng họ đã bị các đối thủ cạnh tranh vượt qua vào năm 1983 do sự tham lưu của chủ ngân hàng Jake Butcher. Sau đó Ngân hàng United American được Tennessee Bank mua lại nhưng ngân hàng này đã không có ý định thương mại hóa nền tảng ngân hàng điện tử.[1]

Internet và sự từ chối của khách hàng

Cuối những năm 1990, nhiều ngân hàng bắt đầu xem ngân hàng di động là một phần không thể thiếu của chiến lược[3]. Năm 1996, OP Financial Group, cũng là một ngân hàng hợp tác, trở thành ngân hàng trực tuyến thứ hai trên thế giới và đầu tiên ở châu Âu[4]. Những lợi ích của nền tảng ngân hàng trực tuyến là khá rõ ràng: chi phí giao dịch giảm, tích hợp dịch vụ dễ dàng, khả năng tiếp thị tương tác và các lợi ích khác giúp tăng danh sách khách hàng và tỷ suất lợi nhuận. Ngoài ra, dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho phép các tổ chức kết hợp nhiều dịch vụ hơn vào các gói duy nhất, từ đó thu hút khách hàng và giảm thiểu chi phí.

Làn sóng sáp nhập và mua lại đã càn quét các ngành công nghiệp tài chính vào giữa và cuối những năm 1990, mở rộng đáng kể cơ sở khách hàng của ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng tìm đến Website như một cách để duy trì mối quan hệ khách hàng. Và còn nhiều yếu tố khác nhau khiến các chủ ngân hàng chuyển hoạt động kinh doanh sang nền tảng ảo.

Trong khi các tổ chức tài chính triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử vào giữa những năm 1990, nhiều người tiêu dùng đã do dự khi thực hiện các giao dịch tiền tệ qua internet, phải dựa trên các công ty theo dõi như America Online, Amazon.com và eBay,... thì ý tưởng thanh toán cho các mặt hàng trực tuyến mới trở nên phổ biến.

Đến năm 2000, 80% các ngân hàng Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử khiến khách hàng sử dụng mới tăng chậm. Ví dụ, tại Bank of America, phải mất 10 năm để có được 2 triệu khách hàng dùng ngân hàng điện tử.

Tuy nhiên năm 2001, Bank of America trở thành ngân hàng đầu tiên có 3 triệu khách hàng dùng ngân hàng di động, chiếm hơn 20% cơ sở khách hàng của mình[5]. Citigroup cũng đã tuyên bố có 2,2 triệu khách hàng dùng ngân hàng trực tuyến trên toàn cầu, trong khi J.P. Morgan Chase ước tính có hơn 750.000 khách hàng ngân hàng di động. Wells Fargo có 2,5 triệu khách hàng ngân hàng trực tuyến. Khách hàng trực tuyến tỏ ra trung thành và có lợi hơn so với khách hàng củ.

Vào tháng 10 năm 2001, khách hàng của Bank of America đã thực hiện kỷ lục 3,1 triệu thanh toán hóa đơn điện tử, với tổng trị giá hơn 1 tỷ đô la. Tính đến năm 2017, ngân hàng có 34 triệu tài khoản kỹ thuật số đang hoạt động, cả trực tuyến và di động[5]. Năm 2009, một báo cáo của Gartner Group ước tính rằng 47% người trưởng thành tại Hoa Kỳ và 30% tại Vương quốc Anh dùng ngân hàng di động.

Đầu những năm 2000 chứng kiến ​​sự gia tăng của các ngân hàng không có chi nhánh khi các tổ chức chuyển qua online banking. Các ngân hàng dựa trên internet này chịu chi phí đầu tư thấp hơn các đối thủ trực tiếp. Tại Hoa Kỳ, tiền gửi tại hầu hết các ngân hàng di động được bảo hiểm FDIC và cung cấp mức bảo hiểm tương tự như các ngân hàng truyền thống.

Dịch vụ ngân hàng trực tuyến đầu tiên theo khu vực

Vương quốc Anh

ngân hàng di động bắt đầu ở Vương quốc Anh với việc ra mắt dịch vụ Homelink của Hiệp hội Xây dựng Nottingham (NBS) vào tháng 9 năm 1982, ban đầu nó bị hạn chế, sau đó mới được mở rộng trên toàn quốc vào năm 1983.[6] Homelink đã được chuyển giao thông qua quan hệ đối tác với Ngân hàng Scotland và dịch vụ Uy tín của British Telecom. Hệ thống này đã sử dụng hệ thống khung nhìn của Prestel và một máy tính, chẳng hạn như BBC Micro hoặc bàn phím (Tandata Td1400) được kết nối với hệ thống điện thoại và ti vi[7]. Hệ thống cho phép người dùng chuyển tiền giữa các tài khoản, thanh toán hóa đơn và sắp xếp các khoản vay, so sánh giá cả và đặt hàng từ một số nhà bán lẻ lớn, kiểm tra thực đơn nhà hàng địa phương hoặc danh sách bất động sản, sắp xếp kỳ nghỉ, tham gia đấu giá trong các phiên đấu giá thường xuyên của Homelink và gửi thư điện tử cho những người dùng Homelink khác. Để thực hiện chuyển khoản ngân hàng và thanh toán hóa đơn, một văn bản cung cấp chi tiết thông tin người nhận dự định phải được gửi đến NBS, người đã thiết lập chi tiết trên hệ thống Homelink[8]. Người nhận thông thường là các công ty gas, điện, điện thoại và tài khoản với các ngân hàng khác. Chi tiết về các khoản thanh toán được thực hiện đã được chủ tài khoản nhập vào hệ thống NBS. Một tấm séc sau đó đã được NBS gửi cho người được trả tiền và một lời khuyên đưa ra chi tiết về khoản thanh toán đã được gửi cho chủ tài khoản. BACS sau đó đã được sử dụng để chuyển khoản thanh toán trực tiếp.

Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, dịch vụ ngân hàng tại nhà "vẫn còn ở giai đoạn sơ khai" do các ngân hàng "còn thận trọng kiểm tra hứng thú của người tiêu dùng" vào năm 1984, một năm sau khi ngân hàng trực tuyến đi vào hoạt động ở Anh.[8] Vào thời điểm đó, Ngân hàng Hóa chất ở New York "vẫn đang tìm ra các lỗi từ dịch vụ của mình khi nó chỉ có thể cung cấp một số tính năng hạn chế. Dịch vụ từ Chemical, được gọi là Pronto, được ra mắt vào năm 1983 và nhằm vào các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ[8]. Nó cho phép họ duy trì sổ đăng ký séc điện tử, xem số dư tài khoản và chuyển tiền giữa tài khoản tiết kiệm. Ba ngân hàng lớn khác - Citibank, Chase Bank và Manufacturer Hanover - bắt đầu cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà ngay sau đó. Pronto của Chemical không thu hút đủ khách hàng để hòa vốn và bị loại bỏ vào năm 1989. Các ngân hàng khác cũng có trải nghiệm tương tự.

Kể từ khi nó xuất hiện lần đầu tiên ở Hoa Kỳ, ngân hàng trực tuyến đã bị kiểm soát bởi Đạo luật chuyển tiền điện tử năm 1978.

Pháp

Sau một thời gian thử nghiệm với 2.500 người dùng bắt đầu từ năm 1984[9], các dịch vụ ngân hàng trực tuyến đã được ra mắt vào năm 1988 bằng việc sử dụng các thiết bị đầu cuối Minlist được chính phủ phân phối miễn phí cho người dân.

Đến năm 1990, 6,5 triệu Minitels đã được cài đặt trong các hộ gia đình. Ngân hàng trực tuyến là một trong những dịch vụ phổ biến nhất.

Dịch vụ ngân hàng trực tuyến sau đó chuyển dần sang internet.

Nhật Bản

Vào tháng 1 năm 1997, dịch vụ ngân hàng trực tuyến đầu tiên được ra mắt bởi Ngân hàng Sumitomo. Năm 2010, hầu hết các ngân hàng lớn đã triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến, tuy nhiên, các loại dịch vụ được cung cấp rất đa dạng. Theo một cuộc thăm dò do Hiệp hội Ngân hàng Nhật Bản (JBA) thực hiện năm 2012, 65,2% là người sử dụng ngân hàng internet cá nhân.

Trung Quốc

Vào tháng 1 năm 2015, WeBank, ngân hàng trực tuyến do Tencent tạo ra, đã bắt đầu cho dùng thử ngân hàng trực tuyến trong 4 tháng.

Châu Úc

Vào tháng 12 năm 1995, Ngân hàng Advance được Ngân hàng St.George mua lại, bắt đầu cung cấp cho khách hàng dịch vụ ngân hàng trực tuyến với việc triển khai chương trình ngân hàng trực tuyến C ++.

Ấn Độ

Năm 1998, Ngân hàng ICICI đã giới thiệu dịch vụ ngân hàng qua internet cho khách hàng của mình.

Brazil

Năm 1996, Banco Original SA ra mắt ngân hàng bán lẻ trực tuyến duy nhất. Năm 2019, các ngân hàng mới bắt đầu nổi lên với tên gọi Conta Simples, chỉ tập trung phục vụ các công ty.

Ngân hàng và World Wide Web

Khoảng năm 1994, các ngân hàng đã thấy được sự phổ biến của internet, rằng đây là một cơ hội để quảng cáo dịch vụ của họ. Ban đầu, họ sử dụng internet như một tài liệu quảng cáo khác, không có tương tác với khách hàng. Các trang web ban đầu có hình ảnh của các nhân viên hoặc tòa nhà của ngân hàng và cung cấp cho khách hàng bản đồ của các chi nhánh và địa điểm ATM, số điện thoại để gọi thêm thông tin và danh sách các sản phẩm đơn giản

Ngân hàng tương tác trên web

Năm 1995, Wells Fargo là ngân hàng đầu tiên của Hoa Kỳ bổ sung dịch vụ tài khoản vào trang web của mình, các ngân hàng khác nhanh chóng làm theo. Cùng năm đó, Presidentia trở thành ngân hàng đầu tiên của Hoa Kỳ cho phép mở tài khoản ngân hàng qua internet. Theo nghiên cứu của Báo cáo ngân hàng trực tuyến, vào cuối năm 1999, ít hơn 0,4% hộ gia đình ở Hoa Kỳ đang sử dụng ngân hàng trực tuyến. Vào đầu năm 2004, khoảng 33 triệu hộ gia đình ở Hoa Kỳ (31%) đã sử dụng một số hình thức ngân hàng trực tuyến[10]. Năm năm sau, 47% người Mỹ đã sử dụng ngân hàng trực tuyến, theo khảo sát của Gartner Group. Trong khi đó, tại ngân hàng trực tuyến của Anh đã tăng từ 63% lên 70% những người dùng internet từ năm 2011 đến 2012. Vào năm 2018, số người dùng ngân hàng số tại Hoa Kỳ đạt xấp xỉ 61%, ở châu Âu con số cũng đã được tăng lên. Năm 2019, một bản số liệu cho thấy 93% dân số Na Uy truy cập các trang web ngân hàng trực tuyến, cao nhất ở châu Âu, tiếp theo là Đan Mạch và Hà Lan. Trên toàn châu Á, hơn 700 triệu người tiêu dùng được ước tính thường xuyên sử dụng ngân hàng số theo khảo sát năm 2015 của McKinsey And Company.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngân_hàng_trực_tuyến http://eprints.hud.ac.uk/id/eprint/21250/1/An_inve... https://histoire.bnpparibas/dossier/le-minitel-lar... https://bankingjournal.aba.com/2017/06/nine-young-... https://www.bartleby.com/essay/Information-Technol... https://www.nytimes.com/1984/01/02/business/britis... https://www.statista.com/statistics/222286/online-... https://www.statista.com/statistics/946109/digital... https://thefinancialbrand.com/68577/optimal-digita... https://www.sparkasse-koelnbonn.de/privatkunden/ba... https://www.dnielectronico.es/PortalDNIe/